Phân tích nhân vật Phèo trong tác phẩm Chí Phèo
by Ngọc Thuận -
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM "CHÍ PHÈO" CỦA NHÀ VĂN NAM CAO.
Vấn đề cần triển khai về "Chí Phèo" : - Bi kịch không được làm người lương thiện, bị hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. - Bá Kiến : Tội ác với những thủ đoạn thâm độc, tinh vi. - Chí Phèo : nhân vật không tính cách, bi kịch xuất hiện khi gặp Thị Nở. - Thị Nở : khát vọng : tình yêu <--> hạnh phúc --> làm người "người đàn bà đẹp trong lốt xấu xí" - hiện thân của khát vọng.) - Xung đột mang ý nghĩa điển hình, cuộc đấu tranh xã hội không khoan nhượng - Tâm hồn nhân hậu của Nam Cao và thái độ bi quan trước hiện thực của nhà văn I. Đặt vấn đề : * Cách 1 :Những năm 40 của thế kỷ, trên văn đàn hiện thực Việt Nam , Nam Cao nổi bật với những trang viết khai phá sâu sắc bi kịch của những kiếp người khổ đau trong bóng đêm của xã hội cũ. Những cuộc đời lầm than đi vào trang sách của Nam Cao đã sống mãi với thời gian. Gắn những nhân vật của mình vào không khí ngột ngạt tối tăm của chế độ thực dân phong kiến, nhà văn đã lột trần bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị, cảm thương sâu sắc nổi đau của con ngưòi. Tấm lòng nhà văn hướng về cuộc sống lầm than cơ cực của người nông dân, phát hiện trong những quẩn quanh bế tắc là bi kịch khủng khiếp hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. Chí Phèo, sáng tác đầu tiên của Nam Cao ra mắt người đọc từ tháng 2 năm 1941, đã có sức tố cáo bộ mặt vô nhân của xã hội và phản ánh bế tắc cùng cực của người nông dân. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, những trang viết sâu sắc đầy tình người vẫn sống mãi, gợi nhớ một quá khứ tủi nhục đau thương của dân tộc. * Cách 2 : Tiếng chửi của một thằng say đã mở đầu cho thiên truyện ngắn đặc sắc "Chí Phèo" của Nam Cao. Nhà văn đã mở ra một cuộc đời đầy bi kịch của một Chí Phèo - thù hận với tất cả : cuộc đời - xã hội - con người và ngay cả bản thân, một Chí Phèo triền miên trong những cơn say, mất cả lương tri, trên hành trình dài đằng đẵng của một kiếp sống không ra sống, trong không gian tăm tối ngột ngạt của xã hội Việt Nam đêm trước của cách mạng. Nhà văn đã dẫn dắt người đọc vào một cuộc đời đau khổ và kết thúc trong cái vòng luẩn quẩn bế tắc. Để khi gấp trang sách lại, trái itm mỗi người vẫn còn thổn thức những buồn thương đau đớn trước bi kịch khó tin của những người không được làm người lương thiện trong xã hội cũ. II. Giải quyết vấn đề : A. Tổng : (bao quát tinh thần của tác phẩm) 1. Sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ do tài năng của Nam Cao đã tạo dựng được cốt truyện theo kết cấu rất hiện đại, mà trước hết xuất phát từ sự quan tâm sâu sắc của nhà vănvới đồng loại của mình. Đằng sau lối kể chuyện lạnh lùng tỉnh táo là cả một trái tim nhân hậu đằm thắm đối với người nông dân - những người sống cùng tác giả. Những vấn đề Nam Cao đề cập trong tác phẩm đâu chỉ là cái nhìn sắc sảo, cách phân tích hiện thực tinh tế, mà còn gắn với quan niệm của nhà văn về cuộc sống, sáng lên tình cảm gắn bó, yêu thương trân trọng tất cả những giá trị cao đẹp gắn với con người của nhà văn. 2. Ánh sáng của tình người nhân hậu ấy đã giúp nhà văn phát hiện ra nguyên nhân của những tấn bi kịch đời người trong xã hội cũ, thắp sáng lên khát vọng mãnh liệt muốn trở về cuộc sống lương thiện. Nhưng trong bóng đêm dày đặc của xã hội cũ, ánh sáng ấy đã tắt ngấm với bao buồn thương bế tắc, trước khi ánh sáng của một ngày mới bừng lên quét sạch bóng đêm. Tuy vậy, ngọn lửa của khát vọng làm người vẫn âm ỉ nhức nhối trong từng câu chữ Nam Cao. 3. Bi kịch của Chí Phèo chỉ thật sự bắt đầu cùng với lần tỉnh rượu đầu tiên của nhân vật, chứa đựng tất cả sóng gió đi qua cuộc đời Chí Phèo, sau đêm trăng huyền thoại - cái đêm "trăng rắc bụi trên sông và sông gợn biết bao nhiêu vàng" - đã đem đến cho Chí một người đàn bà đích thực trong cái lốt xấu xí "ma chê, quỷ hờn" : Thị Nở. B. Phân : (cảm nhận chi tiết - phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật) : * Khoảnh khắc bi kịch của Chí Phèo 1/ Cùng với ánh sáng cuả một ngày mới, lần đầu tiên Chí Phèo nhận biết được những âm thanh đời thường : "Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá". Cả một đoạn văn được viết bằng giọng điệu trữ tình tha thiết đã khắc họa rõ nét sự hồi sinh của tâm-hồn-người trong con-quỷ-dữ của làng Vũ Đại thật cảm động. Một cảm-giác-người đã thức tỉnh lý trí, nối kết quá khứ với hiện tại, một thời yên bình xa xưa và trước mắt là tuổi già, đói rét và ốm đau và cô độc. 2/ Hiện tại lay thức lương tâm thành tiếng thở dài não nuột "Chao ôi là buồn!".. Một nỗi buồn đáng quý, bởi nó đã khơi lại những giấc mơ giản dị của một thời lương thiện: "Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏmột con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Chao ôi là buồn! Vì mãi mãi cái ước mơ về hạnh phúc nhỏ nhoi ấy không bao giờ thành hiện thực, bởi bàn tay tội ác của những kẻ như Bá Kiến đã tước đoạt vĩnh viễn con-người-lương thiện của Chí ngày xưa. Nhưng trong hình hài quỷ dữ, vẫn ẩn náu giấc mơ ngày nào, dù chỉ nhớ lại một cách lờ mờ "hình như…" cũng đủ khẳng định cho sức phản kháng của lương thiện trước tội ác. Để khi hồi sinh thì không thể nào các thế lực hắc ám có thể bóp chết được lương tâm bé bỏng ấy. 3/ Phút lóe sáng của tâm hồn đã giúp nhân vật ý thức nỗi đau của một kẻ cô đơn giữa đồng loại của mình : "Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già củ hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau". Nam Cao đã diễn tả đặc sắc và độc đáo giờ phút bừng thức của nhân vật, bằng lối văn đặc tả sự "bâng khuâng" trong tâm hồn Chí Phèo. Phút ban đầu ấy, quá khứ mơ hồ, hiện tại mơ hồ, tương lai mờ mịt đều nằm trong hai chữ "hình như…". Ở đó le lói ngọn lửa của một trái tim Người. 4/ Thị Nở xuất hiện cùng nồi cháo hành đã thổi bùng ngọn lửa mong manh ấy, đem đến cho trái tim Chí Phèo những nhịp đập đầu tiên của cảm giác tình yêu. Ngòi bút phân tích tâm lý của Nam Cao hết sức tinh tế và nhạy cảm khi mô tả quá trình về lại với cõi người của Chí Phèo : bắt đầu từ ranh giới mong manh "hình như mắt ươn ướt" như một tiếng khóc chào đón cuộc đời mới, cho đến khi Chí Phèo gặp nụ cười Thị Nở là lúc tình yêu bắt đầu lên tiếng - giúp nhân vật ý thức đầy đủ về quãng đời đã qua. Bát cháo thứ nhất là ý thức về Tình Yêu và Dục Vọng. Bát cháo thứ hai là niềm sám hối về tội ác, mở ra khát khao hướng thiện mãnh liệt "Trời ơi, hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn". Cùng với niềm khát khao ấy, Chí Phèo đã trở lại với bản chất của anh Chí ngày xưa : hiền lành, lương thiện. Con đường trở về được hứa hẹn bằng nụ cười tin cẩn của Thị Nở ,làm nở ra nụ cười Chí Phèo. Từ tiếng khóc đến nụ cười, Chí Phèo đã thật sự vươn dậy cùng khát vọng làm người. ----------------------------------------------------------------------------------- Trong đề tài viết về người nông dân,Nam Cao là người đến muộn, trước đó đã sừng sững những Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng. Sẽ tiếp tục thu hoạch gì đây trên mảnh đất đã được nhiều người cày xới? Thử thách ấy được đặt ra khá gay gắt với Nam Cao. Nhưng với một cảm quan hiện thực sắc sảo,với một tấm lòng nhân đạo cao đẹp và tài năng nghệ thuật độc đáo, Nam Cao đã vượt qua những thử thách ấy và để lại cho đời những áng văn bất hủ. Viết về đề tài nông thôn và người nông dân, ngòi bút Nam Cao đã đi sâu vào những xác xơ nghèo đói cùng thân phận bi kịch của những con người dưới đáy xã hội. Từ những trang viết của Nam Cao, hiện lên hình ảnh nông thôn Việt Nam những năm cuối cùng của chế độ thuộc địa tiêu điều, heo hút. Trong xã hội đó giai cấp thống trị tác oai, tác quái và những người nông dân bị đẩy vào ngõ cụt không lối thoát. Truyện ngắn Chí Phèo tiêu biểu cho các đặc điểm đó trong những sáng tác của nam cao. Nhân vật Chí Phèo đã trở thành một hình tượng nghệ thuật bất hủ không chỉ trong nền văn học dân tộc mà cả trong nền văn học nhân loại của thế kỉ XX. Chí Phèo sinh ra trong đói nghèo,cô độc, tủi nhục. Chết đi cũng trong tủi nhục,cô độc và đói nghèo. Trong làng Vũ Đại,Chí Phèo là một thằng cùng hơn cả dân cùng: không cha, không mẹ, không nhà cửa, không thân thích họ hàng. Cả cuộc đới hắn chưa bao giờ được chăm sóc bởi bàn tay của một người đàn bà. Người nhặt hắn về là một anh đi thả ống lươn, nuôi hắn là một bác phó cối không con. Đến nỗi ước mong chung sống với một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn như Thị Nở cũng không được chấp nhận. Mở đầu tác phẩm, Chí Phèo xuất hiện với những tiếng chửi. Chí chứi trời tức là đối lập với tạo hóa, Chí chửi đời tức là đối lập với cả xã hội. Đau đớn hơn, Chí “nghiến răng vào mà chửi cái đứa chết mẹ nào đã đẻ ra Chí Phèo”, điều ấy có nghĩa là Chí đối lập với chính nguồn gốc của mình. Trong tiếng chửi ấy, hiện lên một con người cô độc tuyệt đối. Giữa lúc đó, tiếng chó sủa xuất hiện, dường như Chí chỉ còn mối liên hệ với loài vật. Trong không khí vắng lặng của làng Vũ Đại, chốc chốc lại vang lên tiếng chửi của Chí Phèo, tiếng chó sủa đáp lại và thỉnh thoảng lại ồn lên tiếng gào thét rạch mặt ăn vạ rồi sau đó tất cả lại rơi vào tõm vào im lặng. Như thế Chí Phèo sinh ra để mà bị người ta khinh rẻ, bị quăng khỏi cuộ sống chỉ trông mong vào lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Rồi Chì tồn tại cũng trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người. Không có gì đau xót hơn khi Chí Phèo chết mà người ta mừng. Quả thật số phận khốn khổ ấy của Chí Phèo là số phận của lớp người dưới đáy xã hội. Hình tượng Chí Phèo vô cùng độc đáo nhưng không phải là ngẫu nhiên và cá biệt. Thông qua hình tượng nhân vật này, Nam Cao đã khái quát lên quy luật hủy hoại con người ghê gớm của xã hội cũ. Con quỷ dữ này cũng từng có một thời là người hiền lành, lương thiện. Từ tuổi bơ vơ, hết đi ở nhà này lại đến ở cho nhà khác, đến tuổi thanh niên, làm canh điền cho Lý Kiến, Chí Phèo sống cuộc sống lao động cực khổ của người cố nông Việt Nam trước Cách mạng. Anh nông dân hiền lành ấy đã từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc giản dị. Tuy còn trẻ nhưng anh đã phân biệt được tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu xa. Thế nhưng bản chất trong sáng, lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo đã bị bọn cường hào và nhà tù thực dân hợp sức bóp chết. Trở về làng trần trụi giữa bầy sói, Chí Phèo không thể hiền lành mà muốn sống thì phải cướp giật, ăn vạ, phải đâm chém. Muốn thế phải liều lĩnh, phải có gan. Những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Rồi Chí luôn say, mà đã say thì hắn làm bất cứ điều gì người ta sai hắn làm. Chí Phèo đã gây tội ác trong khi say một cách vô ý thức. Linh hồn của y đã bán cho quỷ dữ mất rồi. Chí Phèo là người đau khổ tủi nhục nhất trên đời. Chị Dậu của Ngô Tất Tố phải dứt ruột để bán con nhưng chị còn có gia đình, còn có tổ ấm để mà tồn tại. Chí Phèo không có gì đành phải bán cái nhân tính của mình để mà sống. Mà Chí lại bán rất rẻ mạt. Mỗi lần chỉ 5 hào bạc để uống rượu mà thôi. Vì bán nhân phẩm như thế Chí Phèo đã bị tha hóa. Đáng lẽ phải đứng về hàng ngũ những người lương thiện, thì Chí lại trơ thành mối đe dọa của họ; đáng lẽ phải đối đầu vơi Bá Kiến thì Chí lại trở thành chỗ đầy tớ chân tay tin cậy của y. Qua đó Nam cao đã vạch trần một quy luật đau xót, nghiệt ngã của chế độ cũ: gặp phải kẻ thù xảo quyệt, nếu không tỉnh táo thì con người lương thiện bị biến thành đối ngược với đồng loại của mình. Người đọc khó có thể quên cái dáng đi ngất ngưỡng, cái bộ mặt cương cương, vằn ngang, vằn dọc và “đôi mắt gườm gườm trông gớm chết” của Chí Phèo. Cái xã hội tàn nhẫn ấy đã hủy hoại một cách sâu sắc và toàn diện con người chí Phèo. Sự xuất hiện của Thị Nở đã chia đôi cuộc đời Chí Phèo: Ở chặng đầu Chí bị tha hóa mà không biết. Gặp Thị Nở rồi, Chí bắt đầu có ý thức về sự tha hóa, về việc trượt quá xa loài người của mình. Lúc này, bi kịch tinh thần ở Chí mới xuất hiện. Cuộc gặp gỡ đã lóe sáng như một tia chớp trong chuỗi ngày tăm tối giằng giặc của Chí Phèo. Thị Nỏ với một tình yêu thô lỗ nhưng rất chân thành đã gợi lên bản chất con người vốn từ lâu bị vùi lấp trong lòng Chí. Từ đây mà Chí Phèo mới biết có một người thương mình. Lần đầu tiên trong đời, Chí mới được ăn một bát cháo hành tử tế do người khác đem cho chứ không phải vì cướp giật. Bát cháo hành ấy mang hương thơm chân thành của tình yêu. Nó gợi lại bao ước mơ thầm kín trong Chí Phèo ngày xưa để có một buổi sáng trong đời thật là cảm động.Nam Cao đã phát hiện ở những con người như Chí Phèo một tâm hồn thi sỹ. Những âm thanh hết sức bình thường của cuộc đời ngày nào cũng có, thế mà như lần đầu tiên Chí mới nghe thấy. Ước mơ trở lại với xã hội loài người của Chí lúc này thật mộc mạc và đáng nâng niu. Thị Nở không chỉ là người yêu mà còn là con đường sống của Chí Phèo: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!” Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, lương thiện của những người lương thiện. Nhưng cái tia chớp lóe lên thật ngắn ngủi rồi tắt ngấm. Nỗi đau xót ở chí Phèo là ước mơ trở lại làm người không được chấp nhận. Lúc thị Nở trở mặt, ban đầu Chí không hiểu nổi vì quá tin, vì đang say với tình yêu, say với ước mơ trở lại làm người. Khi hiểu ra rồi, Chí Phèo lại tìm đến rượu, nhưng lúc này y càng uống càng tỉnh.cái phản ứng sinh lí do rượu gây ra không lấn át nổi sự chấn động mạnh mẻ về tâm lí lúc này. Đó chính là chỗ sâu sắc nhất của ngòi bút Nam Cao khi miêu tả nỗi đau đớn tinh thần ở con người khốn khổ này. Bề ngoài là thị Nở và bà cô từ chối Chí Phèo nhưng thực chất là Chí Phèo đã bị cả xã hội cự tuyệt. Ai mà tin được Chí Phèo - con người có cái lí lịch gớm ghiếc đến như vậy, con người chỉ có độc một nghề là rạch mặt ăn vạ lại có thể thành người lương thiện được. Cái xã hội tàn nhẫn ấy đã đẩy Chí Phèo ra ngoài lề cuộc sống, giờ đây lại chặn đứng Chí Phèo lại ngay trên ngưỡng cửa Chí Phèo trở về làm người lương thiện, ngay khi Chí Phèo đang háo hức gia nhập lại xã hội loài người. Đó chính là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người - bi kịch xót xa, đau đớn nhất của Chí Phèo. Kết thúc tác phẩm, Chí Phèo đẫ tìm đến tiêu diệt kẻ thù truyền kiếp của mình và tự kết liễu cuộc đời. Hành động ấy là tất yếu khi con người đứng trước một tình thế tuyệt vọng. Không muốn tiếp tục làm quỷ dữ cũng không thể làm người lương thiện, Chí Phèo chỉ còn cách tìm đến cái chết. Vì chỉ có cái chết mới giải thoát cho Chí Phèo khỏi cái bi kịch đau đớn của đời mình. Cái chết của Chí Phèo là lời tố cáo đanh thép nhất đối với xã hội đương thời. Đồng thời khi thể hiện cái chết ấy, Nam Cao cũng bộc lộ phần hạn chế trong tư tưởng của mình. Đó là hạn chế về thế giới quan của nhà văn, điều đó cũng có nghĩa bản thân nhà văn Nam Cao cũng tột cùng bế tắc trong thời kì trước Cách mạng tháng Tám. Thông qua số phận bi thảm của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã lên tiếng tố cáo mãnh liệt cả guồng máy xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời đã đè nghiến, hủy hoại con người một cách triệt để. Đồng thời qua Chí Phèo, nhà văn cũng bộc lộ một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc khi đồng cảm với bi kịch đau xót ở lớp người như Chí, khi nhìn thấy tia sáng lương thiện hồi sinh ở nhân vật này. “Chí Phèo” xứng đáng là hình tượng văn học bất hủ, vô cùng độc đáo và có ý nghĩa khái quát sâu rộng này./. ------------------------------------------------------------------------------- Chí Phèo là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã khắc hoạ bức chân dung của người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát. Kết cục tha hoá lưu manh hoá là tất yếu như một sự giải thoát. Qua nhân vật Chí Phèo nhà văn đã mang đến cho người đọc những giá trị nhân văn sâu sắc mà mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên. Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi "hắn vừa đi vừa chửi". Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chí "chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn". Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa. Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực "hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm 20 tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến". Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng có ước mơ giản dị:"có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ. Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc"cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết... cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế". Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những tội ác trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh "con quỷ dữ của làng Vũ Đại". Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: "Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện". Hắn làm những việc ấy trong lúc say " ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say... đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận". Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì "những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang". Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo. Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành cho nhân vật vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến "ma chê quỉ hờn", kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải... Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ :"có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy "tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc - cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau". Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mà mình đã làm? Chẳng biết có phải hay không mà Chí thấy lòng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn bà cho. Trước đây chỉ toàn là giật cướp và dọa nạt. Thì nay chính bàn tay ân cần ấy và tình yêu ấy đã làm hắn thay đổi. Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát "Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ... Ôi sao mà hắn hiền!". Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc sống. Đó là giây phút Chí "thèm lương thiện và khát khao làm hòa với mọi người". Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở "hay là cậu sang đây ở với tớ một nhà cho nó vui". Từ một con quỉ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,... cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào! Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo. Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu trời đêm đen của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một niềm cảm thông cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời. Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe thoang thoảng mùi cháo hành rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con "khọm già", con "đĩ Nở" nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu trong con người của Chí, anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người: - Tao muốn làm người lương thiện - Ai cho tao lương thiện? Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người! Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Sự kết hợp giữa giá trị hiện thực sắc bén và giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại. ---------------------------------------------------------------------------------- Là một nhà văn luôn băn khoăn trăn trở về cách sống và cách viết, Nam Cao đã từng tuyên ngôn “Sống đã rồi hãy viết”.Một nhà văn muốn viết được nhân đạo trước hết phải sống cho nhân đạo bởi cuộc đời quyết định đến văn chương.Nam Cao luôn nhìn đời bằng đôi mắt của tình thương , đôi mắt của lòng nhân ái. Với cách nhìn đời này, Nam Cao bắt đầu cầm bút sáng tác.Trước Cách Mạng, Nam Cao viết về hai đề tài, đè tài người nông dân và đề tài người trí thức tiểu tư sản. Ở đề tài nông dân hay nhất, tiêu biểu nhất phải kể đến sáng tác đầu tay của Nam Cao, tác phẩm Chí Phèo.Linh hồn của câu chuyện là nhân vật cùng tên được nhà văn miêu tả với một tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người:Sinh ra là người nhung không được làm người, cả đời khao khát lương thiện ,cuối cùng trỏ thành kẻ bất lương.Thông qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của hắn nông dân Chí, ngòi bút Nam Cao bộc lộ là một ngòi bút nhân đạo, nhân văn, sâu sắc và cao cả. com Người ta thường nói bi kịch là một hoàn cảnh bi thảm, bi thương,bi đát nào đó, điều này không chính xác.Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính, cháy bỏng, mãnh liệt của một con người nhung không có điều kiện thực hiên trên thực tế, cuối cùng người mang khát vọng bị rơi vào kết cuc của một thảm kịch. Bi kịch là cuộc đáu trhắn dai dẳng, không khoan nhượng giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cao thượng và thấp hèn, giữa chính nghĩa và phi nghĩa.Trong cuộc sống thường ngày, thương nhật, bi kịch không diễn ra giữa các lực lượng xã hội đấu trhắn với nhau, trái lai nó là lực lưọng tinh thần trong đời sống tâm hồn của một con người , ví như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, cả đời hắn khao khát lương thiện, cuối cùng trở thành kẻ bất lương , sinh ra là người nhưng không dược làm người, để rồi hắn chết trên con đường trở về lương thiện. Cuộc đời con người là một chuỗi vân đọng liên hoàn mà chúng ta không thể phân tách hay chia cắt được.Tuy nhiên cuộc đời mỗi con người được hình thành bởi những điều kiện, hoàn cảnh . Ở những điều kiện lớn, hoàn cảnh lớn,bản chất con người mới được bộc lộ bởi nói như H.Balzac: “Bản chất của con người thường bị bánh xe của số phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc lộ.” Cuộc đời Chí Phèo tù lúc sinh ra đến lúc chết đi đươc chia làm hai chặng đường: chặng đường đầu tiên từ lúc Chí sinh ra đến năm hai mươi tuổi và sau khi ra tù. Lai lịch Chí Phèo đươc mỏ ra trong câu chuyện là một đứa trẻ xám ngắt, đượcbọc trong một tấm váy đụp bên cạnh lò gạch bỏ hoang, được người thả ống lươn đem về trong một buổi sớm tinh sương.Lớn lên, Chí Phèo được cưu mang bởi những con người nghèo khổ,Chí Phèo đi ở hết nhà này cho đến nhà khác, từ bà goá mù cho đến ông Phó Cối.Quá khứ ấy không khiến Chí Phèo trở thành một đứa trẻ hư hỏng, trái lại, đến năm hai mươi tuổi, khi đi làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến, Chí Phèo vẫn giữ nguyên bản tính của một người nông dân thuần hậu.Cũng như biết bao người nông dân làng Vũ Đại, Chí Phèo ước mơ có được một cuộc sống bình dị bởi mơ ước của một con người phần nào bộc lộ bản tính của người ấy. Ở đây,Chí Phèo ước mơ có một cuộc sống nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ con lợn để nuôi, khá giả mua năm ba sào ruộng cấy.Mơ ước ấy chứng tỏ rằng hắn là một người nông dân thuần hậu, thậm chí làng Vũ Đại còn gọi hắn là người “lành như cục đất”.Ta còn thấy Chí phèo là một người trong sáng và trọng dhắn dự.Làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến, rồi một lần bị bà Ba Kiến gọi lên bóp chân,Chí Phèo chỉ thấy nhục, thấy sợ .Trái tim của Chí Phèo hai mươi tuổi đau còn là gỗ đá, Chí Phèo đã nhận thức đượcđâu là tình yêu chân chính, đâu là thói dâm ô. Bị gọi “đấm bóp cho bà 3 quỷ quái hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Như vậy, rõ ràng, đến đây ta có thẻ khẳng định hắn là một người nông dân thuần hậu, là người trong sáng và trọng dhắn dự nhưng xã hội ấy không cho Chí Phèo sống yên ổn với bản tính nông dân thuần hậu của hắn.Chí Phèo đang sống trong cái xã hội mà “Kiếp người cơm vãi cơm rơi- Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi.”, trong cái xã hội mà cạm bẫy người giăng giăng như mắc cửi thì những ngời hiền lành như Chí Phèo bao giờ cũng phải chịu thiệt thòi.Vì một cơn ghen bóng gió,Chí Phèo đã bị Bá Kiến tống vào ngục tù, con người xảo quyệt này sẵn sàng chà đạp lên cuộc đời người khác không thương tiếc, không ghê tay.Bắt đầu từ đây, Chí Phèo chuyển sang một trạng thái khác, một cuộc sống khác.Nhân đây cũng phải nói qua cái nhà tù, đây là nhà tù thực dân, đồng loã với lão Bá tha hoá Chí Phèo.Nhà tù này có bản chất xã hội trái hoàn toàn với bản chất xã hội của một nhà tù mà loài người đang mong đợi.Nhà tù này chỉ thu nạp tù nhân khi hắn ta còn lành như cục đát, vào nhào năn, đào tạo đến khi thánh con quỉ dữ thì thả họ ra.Nhà tù này tiếp tay cho lão Bá tha hoá Chí Phèo, nhà tù này đã biến hắn Chí “lành như cục đất” giờ đây ra tù...hãy nghe Nam Cao mô tả diện mạo của Chí Phèo lúc ra tù:”Caí đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm, ngực và tay chạm trổ đầy những hình rồng phượng, có cả một ông tướng cầm chuỳ.Trông Chí Phèo đặc như một tên săng đá”.Hình ảnh này đã làm tái hiện một Chí Phèo khác hoàn toàn, thay thế hắn nông dân thuần hậu ngày xưa giờ đây là một Chí Phèo sinh ra làm người nhưng không được làm người, hiền lành chân chất là thế giờ dây trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. ---------------------------------------------------------------------------------- Phân tích nhân vật Chí Phèo Giả sử, bạn là một người trong làng Vũ Đại, lớn lên lúc “con quỷ Chí Phèo”về làng, thì lúc đó bạn cảm nhận sao về Chí Phèo? “Một con quỷ khát máu”, chuyên rạch mặt ăn vạ! Vậy mà “con quỷ” ấy lúc trước lại là một người hết sức lương thiện và đến khi sắp chết cũng lại còn muốn trở thành người lương thiện… Nhưng cái lương thiện ấy cũng chẳng được xã hội lúc bấy giờ dung túng. Khi Chí Phèo vẫn còn là một thanh niên phơi phới tuổi xuân thì lại bị Lí Kiến ghen tuông mà đẩy cho đi ở tù. Cũng chính bởi vì cái lí lịch “được nhặt” ở lò gạch cũ mà Chí Phèo “chẳng là gì” trong cái xã hội tàn bạo chỉ biết bốc lột, chèn ép những người nông dân bi thảm. Ở đây, Chí Phèo nói riêng,là đại diện cho tầng lớp nhân dân trước cách mạng: hiền lành, chân chất nhưng luôn bị xã hội khinh rẽ. Rồi đến khi Chí Phèo thật sự bị đẩy ra bên lề của xã hội, thậm chí gần như là ra bên ngoài xã hội, thì lúc đó hắn chẳng còn mang hình dáng của con người nữa. Trên mặt hắn đầy những vết vằn ngang vằn dọc do “rạch mặt ăn vạ”, trên cơ thể hắn không biết bao nhiêu là sẹo mà đếm.”Trông gớm chết!”… Nói đi cũng phải nói lại, chẳng khi không mà hắn lại tự biến mình thành con người như thế. Hắn bắt buộc phải làm như thế để có thể tiếp tục tồn tại được trong xã hội. Để có thể tiếp tục uống rượu say khước, chẳng biết ngày tỉnh và để tiếp tục chưởi bới. Mà tiếng chưởi của Chí Phèo cũng hay đấy chứ! Hắn chưởi trời, mà trời thì đâu có thể đáp lại lời hắn, rồi hắn lại chưởi người làng Vũ Đại, nhưng đáng tiếc thay ai cũng nghĩ rằng:”chắc hắn trừ mình ra”. Cuối cùng, hắn lôi “đứa nào đẻ ra hắn” mà chưởi. Không phải hắn chỉ chưởi cho sướng cái mồm mà thôi, mà hắn đang cay đắng nhìn lại đúng cái cuộc đời như trong lời chưởi của hắn. Chí Phèo tự chưởi rồi cũng tự nghe, đáp lại chỉ có những con chó sủa ầm lên mổi khi hắn đi qua.Vậy ra là hắn đang chưởi nhau với chó à! Suy ra cho cùng thì hắn cũng chỉ được xếp ngan hàng với mấy con chó. Xã hội thật sự đào thải hắn, không cho hắn dung thân và cũng không cho hắn có được cái cơ hội nào nữa cả. Bắt đầu từ đó, hắn tha hóa và dần mất hết tính người. Chỉ biết mỗi chuyện: uống rượu say, rạch mặt, ăn vạ, dọa nạt, đâm chém, xin tiền… Chính bởi những cái đó càng làm cho hắn cô độc hơn khi cơn say trong hắn cứ triền miên từ ngày nay qua tháng nọ. Trong người hắn chẳng còn máu, mà chỉ có rượu thôi, rượu chảy trong hắn và nuôi sống hắn! Thế nhưng, trong cuộc sống vẫn còn có những nốt trầm bỏng khác nhau.Cuộc sống của Chí Phèo có một bước ngoặc lớn khi Thị Nở xuất hiện. Cái hơi hám của tình yêu mang hắn về lại với xã hội loài người. Mang men rượu ra xa Chí Phèo. Và khiến hắn khao khát có được mái ấm gia đình, một cuộc sống bình thường như bao người khác và hơn hết, hắn muốn lại trở thành một con người lương thiện… Vậy mà cái xã hội tàn bạo, không nhân tính ấy đâu có cho hắn được toại nguyện.Chỉ một bát cháo hành của Thị Nở thôi thì đâu có đủ để cả xã hội chấp nhận hắn. Nhưng ít ra, bát cháo hành ấy cũng đã khơi gợi được “nhân tính” trong hắn. Ít ra hắn cũng biết rằng hắn cần phải sống lương thiện. Hắn đã thật sự ngạc nhiên rằng đó mới chính là điều bấy lâu nay hắn khao khát muốn đạt được, đó là khát khao hạnh phúc. Khát khao được sống như một con người bình thường. Khi mà những tiếng chim hót ngoài kia cứ ríu rít vang lên bên tai hắn, tiếng cười nói của những người đi chợ rôm rả bên ngoài túp lều của hắn, và “chao ôi là buồn” …hắn đang cố hình dung về những gì mà hắn đã từng rất mơ ước.Một người vơ dệt vải, một người chồng cày thuê cuốc mướn… Vậy mà, hắn giờ đã già rồi mà vẫn chưa thể nào đạt được những mơ ước nhỏ nhoi ấy.Hắn thấy hắn buồn vô cùng. Kể từ mấy chục năm nay, có bao giờ mà hắn có được những cảm xúc buồn vui thế này đâu! Có bao giờ mà hắn ngồi ngẫm nghĩ về cuộc đời của hắn! Và lần đâu tiên, hắn được một người đàn bà cho, Thị Nở mang bát cháo hành đến cho hắn giống như mang ánh sáng của cuộc đời đến làm xua đi cái đen tối mờ mịt luôn bao vây lấy hắn. Trong lúc ấy, hắn cảm thấy ăn năng và hối hân về những tội ác mà hắn đã gây ra.Bát cháo hành nóng ấy dường như có một uy lực ghê gớm. Nó khiến cho một “con quỷ khát máu” cũng phải thấy được lỗi lầm của mình và cũng gội rửa đi thú tính của hắn. Làm hắn cảm thấy mình có được hơi thở của con người, làm hắn cảm thấy cần một bàn tay của người ta chăm sóc hắn. Là tự nguyện chứ không phải do hắn giành giật mà có được nữa. Bát cháo hành và Thị Nở đã mở đường cho hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Nhưng mà nào có được đâu,ngược lại, xã hội ấy chẳng những đồi bại mà còn đầy những định kiến cho cuộc sống trở thành bi kịch và lâm vào ngõ cụt. Bà cô của Thị Nở đã ngăn cản đứa cháu của mình lấy một thằng “không cha,làm nghề rạch mặt ăn vạ”.Thế là Thị tức điên lên và tìm gặp Chí để xả hết những lời của bà cô vào mặt Chí. Rồi Thị ra về và Thị hoàn toàn không biết rằng những việc mình vừa làm đã tác động đến Chí thế nào. Chí Phèo quyết định “đâm chết” bà cô của Thị Nở, thế nhưng “Tao phải đâm chết nó” của Chí Phèo lại nhầm vào Bá Kiến. Chí Phèo đã chấm dứt tất cả bằng cách giết Bá Kiến và tự sát.Tại vì hắn đã nhận ra cái nguyên nhân sâu xa khiến cho con người hắn trở nên như ngày hôm nay. Hắn đã ý thức được về hình hài cũa mình. Với cái hình hài người chẳng ra người, vật chẳng ra vật thì làm sao hắn có thể trở thành người lương thiện được đây! Hắn lắc đầu:”Ai cho tao lương thiện…Tao không thể là người lương thiện nữa”.Ngay khi “con quỷ dữ” ấy tàn bạo nhất, lại chính là lúc cái bản chất tốt đẹp của hắn được phơi bày. Hắn đã chẳng còn được cơ hội nào nữa. Chỉ có cái chết mới giúp giải thoát hắn khỏi những bất công tàn ác đó. Cái chết của Chí Phèo không mang câu chuyện về nơi kết thúc mà ngược lại, dường như nó chỉ mới bắt đầu thôi. Khi Thị Nở bổng dưng nhìn thấy cái lò gạch cũ thì câu chuyện đã lại bắt đầu chuyển sang một giai đoạn mới. Vậy ra, trong cái xã hội thối nát ấy, con người chỉ quanh đi quẩn lại với cái vòng tròn vô định hướng ấy. Chí Phèo này chết rồi thì sẽ lại có một Chí Phèo con xuất hiện. Đến khi nào mới hết những con người khốn khổ bị dồn đến bước đường cùng, không còn một lối thoát nào nữa. Nhân vật Chí Phèo, từ một người nông dân hiền lành, rồi trở thành quỷ dữ, rồi lại muốn trở thành người hiền lành. Qua bao nhiêu là sự biến đổi, nhưng cái bản chất gốc gác của hắn thì vẫn tồn tại như chính con người hắn đã hiện hữu.
|